Đánh giá ảnh hưởng của cơ chất và khả năng phân hủy rơm của chủng Trichoderma sp.
13-05-2025

Việt Nam là quốc gia nông nghiệp, đa dạng về giống cây trồng với nhiều loài chủ lực và có giá trị kinh tế cao. Để bảo vệ năng suất và chất lượng của cây trồng, biện pháp hóa học được sử dụng rộng rãi mặc dù sử dụng nhiều thuốc hóa học sẽ tạo ra tính kháng của dịch hại và gây ô nhiễm môi trường và khó phòng trừ được nhóm nấm gây bệnh hại cây trồng có nguồn gốc trong đất. Trong số các vi sinh vật đối kháng, nấm Trichoderma spp. được sử dụng nhiều trong phòng trừ bệnh hại cây trồng cả trên thế giới và ở Việt Nam như T. viride, T. harzianumT. hamatum (Huy và ctv, 2017).

Trichoderma là một loại vi nấm được phân lập từ đất, thường hiện diện ở vùng xung quanh hệ thống rễ cây. Đây là loại nấm hoại sinh có khả năng ký sinh và đối kháng với nhiều loại nấm bệnh trên cây trồng. Nhờ vậy, nhiều chủng Trichoderma spp. đã được nghiên cứu ứng dụng như một tác nhân phòng trừ sinh học và đã được thương mại hóa dưới dạng thuốc trừ bệnh sinh học (biofungicides), phân sinh học (biofertilizers) và chất cải tạo đất (Minh và ctv, 2010). Những nghiên cứu trước đây cho thấy nấm Trichoderma spp. có tác dụng đối kháng chống lại ít nhất 18 chi và 29 loài nấm gây bệnh cây, cũng như một loạt các vi khuẩn gây bệnh cây. Một số loại nấm đã phân loại thuộc chi Trichoderma phổ biến của vùng Đồng bằng sông Cửu Long như Trichoderma harzianum Rifai, T. hamatum Bainier, T. atroviride Karsten, T. reesei Simmons và T. virens Von Arx (Harman, 2006; Minh và ctv, 2010). Do Trichoderma có khả năng tiêu diệt một số loài vi nấm gây hại cây trồng bằng nhiều cơ chế như ký sinh cạnh tranh chất dinh dưỡng, tạo chất kháng sinh, tiết các enzyme ngoại bào,…nên được áp dụng nhiều trong lĩnh vực đối kháng với nấm bệnh (Harman & Kubicek, 1998; Vinale et al., 2014). Hệ enzyme ngoại bào của Trichoderma đóng vai trò rất quan trọng trong đấu tranh sinh học. Đặc biệt là các enzyme celllulase, chitinase, amylase, pectinase và lipase giúp phân hủy các chất hữu cơ thiết yếu (Kredics et al., 2003; Harman, 2006).

Hình khuẩn lạc của 9 chủng Trichoderma sau 2 ngày nuôi cấy trên môi trường PDA
Hình khuẩn lạc của 9 chủng Trichoderma sau 2 ngày nuôi cấy trên môi trường PDA

Từ chín mẫu nấm Trichoderma tiến hành khảo sát các hoạt tính enzyme cho thấy phần lớn các chủng nấm đều có hoạt tính enzyme mạnh. Trong đó, bốn chủng Tricho 2, Tricho 3, Tricho 5 và Tricho 6 cho kết quả hoạt tính cao hơn các chủng còn lại trong quá trình khảo sát, có đường kính vòng phân giải D ≥ 2,5 cm ở các enzyme khảo sát bao gồm enzyme amylase, enzyme cellulase, enzyme pectinase, enzyme chitinase và enzyme protease.

Kết quả đánh giá ảnh hưởng của cơ chất và hàm lượng cơ chất lên khả năng sản xuất cellulase của 4 chủng nấm cho thấy cơ chất bả mía và lõi ngô ở tỉ lệ 1% và 1,5% có ảnh hưởng đến việc sản xuất nhiều enzyme. Ở chủng Tricho 2 hoạt tính enzyme cao (0,715 U/mL) ở 48 giờ nuôi cấy trong điều kiện môi trường bổ sung lõi ngô với tỉ lệ 1,5%, chủng Tricho 3 hoạt tính enzyme cao (0,467 U/mL) ở 48 giờ trong điều kiện nuôi cấy có bổ sung bả mía 1,5%, chủng Tricho 5 có hoạt tính enzyme cao (0,463 U/mL) ở 48 giờ trong điều kiện nuôi cấy có bổ sung bả mía 1% và chủng Tricho 6 có hoạt tính enzyme cao (0,564 U/mL) ở 72 giờ trong điều kiện nuôi cấy có bổ sung lõi ngô 1%.

Có thể tiến hành thêm các thí nghiệm về khả năng phân hủy rơm hay các loại phế phẩm nông nghiệp để sản xuất phân bón hữu cơ cho sản xuất; thực hiện thêm các thí nghiệm về các điều kiện ảnh hưởng lên khả năng sản xuất enzyme của các chủng nấm như pH, nhiệt độ, độ ẩm và chất nền phù hợp bởi hàm lượng enzyme phụ thuộc vào nhiều yếu tố và tùy chủng nấm; xây dựng quy trình sản xuất chế phẩm Trichoderma sp. có nguồn gốc từ các loài bản địa để tăng khả năng thích nghi và hiệu quả áp dụng tại địa phương.

 

Ngày đăng: 13-05-2025

Tác giả: Bùi Nhi Bình

loading-gif
mess-icon zalo-icon call-icon group-icon