Cây lúa (Oryza sativa L.), thuộc họ hoà thảo Gramineae (Poaceae), là một trong những loại cây lương thực chính, được tiêu thụ bởi hơn một nửa dân số thế giới. Tỷ lệ canh tác và sản xuất lớn làm cho lúa gạo trở thành nguồn nguyên liệu sẵn có cho các ứng dụng khác nhau. Những nghiên cứu gần đây cho thấy lá lúa non giai đoạn sinh trưởng có chứa hàm lượng dinh dưỡng và các hợp chất sinh học có giá trị. Lá lúa giống gạo đen được ghi nhận có chứa các hợp chất polyphenol và flavonoid có đặc tính chống oxy hóa, chống viêm và chống ung thư.
Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng các yếu tố gây stress sinh học và phi sinh học có thể làm thay đổi hàm lượng và thành phần các hợp chất sinh học của cây. Một trong những yếu tố bất lợi phi sinh học phổ biến nhất là điều kiện che sáng hay cường độ ánh sáng. Sự thay đổi cường độ ánh sáng có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển, các đặt tính hình thái, sinh lý, sinh hoá và khả năng quang hợp của thực vật, và cuối cùng là ảnh hưởng đến năng suất sản phẩm. Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ che bóng càng cao thì năng suất lạc càng giảm. Vì vậy, việc xác định điều kiện canh tác tối ưu sẽ giúp thu được sản phẩm thực vật có năng xuất cao nhất.
Hiện nay, nhiễm nấm là nguyên nhân đứng thứ tư gây nhiễm khuẩn đường máu và loại nấm liên quan phổ biến nhất là loài Candida. Trong số tất cả các loài, C. albicans là tác nhân gây nhiễm khuẩn niêm mạc và nhiễm khuẩn hệ thống phổ biến nhất và là nguyên nhân gây ra khoảng 70% các trường hợp nhiễm nấm trên toàn thế giới. Sản phẩm từ thực vật có chứa các hợp chất sinh học như chlorophyll và polyphenol đã được công bố là có khả năng kháng nấm hiệu quả. Nghiên cứu kháng nấm C. albicans từ hạt gạo đã được báo cáo. Tuy nhiên, vẫn chưa có nghiên cứu nào được báo cáo về khả năng kháng nấm của lá lúa. Vì vậy, việc đánh giá ảnh hưởng của thời điểm thu hoạch lá lúa và độ che sáng đến hàm lượng chlorophyll và polyphenol và hoạt tính kháng nấm C. albicans của dịch chiết lá lúa là mục tiêu của nghiên cứu.

Nghiên cứu sử dụng sáu giống lúa được trồng phổ biến ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long gồm IR50404, Nàng Thơm, Tài Nguyên, Hương Lài, Nếp Tím và Huyết Rồng. Lá lúa được thu hoạch tại sáu thời điểm (1, 2, 3, 4, 5 và 6 tuần sau gieo) và áp dụng ba điều kiện che sáng (không che, che 1 lớp lưới và che 2 lớp lưới). Lá lúa được chiết với ethanol 80%. Các chỉ tiêu phân tích gồm hàm lượng chlorophyll, hàm lượng polyphenol và khả năng kháng nấm Candida albicans.
Kết quả nghiên cứu cho thấy hàm lượng chlorophyll trong dịch chiết lá lúa của các giống lúa Hương Lài, Huyết Rồng, Nếp Tím và Nàng Thơm tăng dần từ tuần thứ nhất, đạt cao nhất (1286-1469 μg/g lá) ở tuần thứ tư. Tuy nhiên khi thời gian sinh trưởng tăng thì hàm lượng chlorophyll lại giảm. Cụ thể, ở tuần thứ năm, hàm lượng chlorophyll trong dịch chiết lá của các giống lúa dao động khoảng 1206-1313 μg/g lá. So sánh ảnh hưởng của mức độ che sáng lên hàm lượng chlorophyll trong dịch chiết lá lúa, kết quả cho thấy hàm lượng chlorophyll trong dịch chiết lá lúa ở điều kiện không che sáng và che sáng 1 lớp lưới cao hơn so với che sáng 2 lớp lưới.
Tương tự như chlorophyll, hàm lượng polyphenol trong dịch chiết lá lúa ở các giống lúa Tài Nguyên, IR50404 và Nàng Thơm cũng thay đổi theo thời gian tăng trưởng, tăng dần từ tuần thứ nhất và đạt cao nhất ở tuần thứ năm. Tuy nhiên, đến tuần thứ sáu thì hàm lượng polyphenol lại giảm. Mặt khác, hàm lượng polyphenol trong dịch chiết lá lúa của các giống lúa được kiểm tra đạt cao nhất ở điều kiện không che sáng, dao động 5,2-6,3 mg/g lá. Trong khi đó, giá trị này ở các điều kiện che sáng 1 lớp lưới và hai lớp lưới chỉ khoảng 2-2,6 mg/g lá.
Kết quả phân tích khả năng ức chế nấm C. albicans cho thấy có sự thay đổi về tỉ lệ phần trăm ức chế kháng nấm của dịch chiết lá lúa ở các giống lúa, điều kiện che phủ và thời điểm thu hoạch lá lúa. Dịch chiết lá lúa của giống IR50404 thể hiện tính chất kháng nấm cao nhất, đạt gần 50%. Xét ảnh hưởng của điều kiện che sáng, dịch chiết lá lúa của giống lúa Huyết Rồng cho khả năng ức chế nấm gần 50% trong khi điều kiện che sáng cho khả năng ức chế thấp hơn (25-35%). Ngoài ra, kết quả còn cho thấy hoạt tính kháng nấm của dịch chiết lá lúa giống IR50404 ít chịu tác động của điều kiện che sáng.
Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra rằng điều kiện che sáng và thời gian sinh trưởng có ảnh hưởng đáng kể đến hàm lượng chlorophyll, polyphenol và thuộc tính kháng nấm trong lá lúa. Nghiên cứu đã chứng minh sự thay đổi trong hàm lượng của các chất này theo điều kiện che sáng và thời gian sinh trưởng đã làm thay đổi tính chất kháng nấm của dịch chiết lá lúa. Đồng thời, hàm lượng polyphenol, chlorophyll và tính chất kháng nấm của lá lúa phụ thuộc vào giống lúa. Kết quả cũng cho thấy có mối liên quan giữa hàm lượng chlorophyll, polyphenol và tính chất kháng nấm. Các giá trị này đạt cao nhất khi lúa phát triển dưới điều kiện không che sáng và giai đoạn cây từ 3-5 tuần tuổi.
Nghiên cứu là tiền đề cơ sở để lựa giống lúa có tính kháng cao với nấm Candida phù hợp sản xuất dịch chiết ứng dụng trong mỹ phẩm chăm sóc da.
Tạp chí Dinh dưỡng và Thực phẩm, Tập 20, Số 4 – Năm 2024, trang 60-71.
Ngày đăng: 05-05-2025
Tác giả: Đặng Chí Thiện