Đặc tính ra hoa và phát triển của trái xoài cát Hòa Lộc (Mangifetra indica L.) tại huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang
03-03-2025

Xoài (Mangifetra indica L.) là loại cây ăn trái có giá trị kinh tế cao, là một trong những cây ăn trái quan trọng, có tiềm năng xuất khẩu rất lớn. Theo Cục trồng trọt (2021), ĐBSCL là khu vực trồng xoài nhiều nhất cả nước với diện tích 47.880 ha gồm nhiều giống khác nhau như: xoài cát Hòa Lộc, cát Chu, xoài Tượng da xanh,… Trong đó, nổi bật là giống xoài cát Hòa Lộc, là giống xoài có phẩm chất ngon, giá trị kinh tế cao và rất được thị trường ưa chuộng (Trần Văn Hâu, 2005). Tuy nhiên, việc thu hoạch xoài trong mùa thuận diễn ra tập trung dẫn đến sản lượng xoài lớn, giá rẻ, nhưng vào các thời điểm khác trong năm giá xoài có thể cao hơn ở mùa thuận rất nhiều lần (Nguyễn Bảo Vệ & Lê Thanh Phong, 2011). Do đó, điều khiển xoài ra hoa ở các thời điểm khác nhau trong năm là biện pháp cần thiết.

Tran Van Hau et al. (2018) kết luận rằng, khi ứng dụng UCZ với liều lượng 1; 1,5 và 2 g a.i./m đường kính tán và PBZ với liều lượng 1,5 g a.i./m đường kính tán trên xoài cát Hòa Lộc thì tỷ lệ ra hoa cao nhất (85,5-90%) ở nghiệm thức sử dụng UCZ với liều lượng 1,5-2 g a.i./m đường kính tán. Chiều dài phát hoa của vụ thuận là 42,5 cm và vụ nghịch là 41,6 cm. Theo Trần Thế Tục (1998), mỗi phát hoa dài từ 10-60 cm và mang nhiều nhánh hoa trên một phát hoa do vậy chiều dài phát hoa rất biến động. Tỷ lệ đậu trái ở mô hình và đối chứng khác biệt có ý nghĩa ở mức ý nghĩa 5% qua kiểm định t-Test. Trong vụ thuận, tỷ lệ đậu trái ở mô hình (30,5%) cao hơn ở đối chứng (24,5%). Ở vụ nghịch tỷ lệ đậu trái của mô hình đạt 21,5% trong khi của đối chứng chỉ đạt 19,3%. Khi làm thí nghiệm để tìm ra hiệu quả của các hóa chất khác nhau đối với sự ra hoa và đậu trái ở xoài Himampasand, Gopu et al. (2015) ghi nhận khi xử lý UCZ 1,5 g/L thì cây xoài có tỷ lệ hoa lưỡng tính cao và tỷ lệ đậu trái cao nhất so với các nghiệm thức còn lại trong thí nghiệm.

Khối lượng trung bình trái khác biệt không có ý nghĩa thống kê giữa mô hình và đối chứng. Cụ thể, khối lượng trung bình trái vụ thuận (434,6 g) và vụ nghịch (400,5 g). Theo Tôn Thất Trình (1995), trái xoài cát Hòa Lộc có khối lượng từ 350-500 g/trái. Khối lượng trái/cây và năng suất (tấn/ha) giữa mô hình và đối chứng khác biệt có ý nghĩa thống kê. Khối lượng trái/cây trong vụ thuận của mô hình và đối chứng có giá trị trung bình là 41,5 kg/cây và 38 kg/cây. Lima et al. (2016) ghi nhận được tỷ lệ trái trên cây cao nhất 57,98 kg/cây, số lượng trái trên mỗi cây cũng tăng lên 167% góp phần làm cho năng suất tăng lên 9,78 tấn/ha. Năng suất khác biệt có ý nghĩa thống kê ở mức ý nghĩa 1%. Năng suất ở mô hình trong vụ thuận là 8,3 tấn/ha, vụ thuận 8,1 tấn/ha và đối chứng là 7,6 tấn/ha và 6,5 tấn/ha.

Hàm lượng tổng acid -TA, hàm lượng Vitamin C và độ Brix giữa mô hình và đối chứng ở vụ thuận có giá trị trung bình lần lượt là 0,39 mg/L; 9,9 mg/100 g; 22,1% và ở vụ nghịch các giá trị này lần lượt là 0,45 mg/L; 10,16 mg/100 g; 21,6%. Theo Trần Văn Hâu và ctv. (2015), khi độ Brix đạt từ 21%, hàm lượng chất khô đạt 26-28%, tỷ lệ thịt trái 81-82% và tỷ trọng trái 1,02 lúc này trái xoài cát Hòa Lộc sẽ có chất lượng tốt nhất. Tỷ lệ vỏ trái và hạt xoài khá thấp trung bình từ 17-20% do đó tỷ lệ ăn được của xoài cát Hòa Lộc rất cao so với khối lượng trái trung bình từ 79-80%. Theo Trần Văn Hâu (2013), áp dụng quy trình xử lý ra hoa bằng PBZ kết hợp với kích thích trổ hoa bằng thiourea không làm ảnh hưởng đến một số chỉ tiêu đánh giá phẩm chất trái như tỷ lệ thịt trái, độ Brix, TA, vitamin C.

Xử lý ra hoa theo mô hình cho thấy kết quả tiết kiệm được 25% lượng hóa chất xử lý ra hoa trên cây xoài cát Hòa Lộc từ đó dẫn đến lợi ích về kinh tế cho nông dân hơn. Đồng thời, quy trình chăm sóc theo mô hình nghiên cứu góp phần đảm bảo chất lượng trái an toàn đạt tiêu chuẩn VietGap và hạn chế tác động xấu đến môi trường.

 

Nguồn bài viết: Tạp chí công thương, số 9, tháng 4/2024

Ngày đăng: 03-03-2025

Tác giả: Bùi Nhi Bình

loading-gif
mess-icon zalo-icon call-icon group-icon